Tài Nguyên Nhân Văn Ở Việt Nam
Tài nguyên du lịch được xem là một trong những tiền đề quan trọng cho việc thúc đẩy và phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch cành phong phú, đa dạng thì càng có sức hút đối với du khách. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu khái niệm tài nguyên du lịch là gì? Tầm quan trọng và phân loại tài nguyên du lịch. Cùng theo dõi nhé!
Các chính sách của nhà nước nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên là gì?
Tại Điều 5 Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định về chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường như sau:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân tham gia thực hiện, kiểm tra, giám sát hoạt động bảo vệ môi trường.
- Tuyên truyền, giáo dục kết hợp với biện pháp hành chính, kinh tế và biện pháp khác để tăng cường việc tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường, xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường.
- Chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; phát triển hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường.
- Ưu tiên xử lý ô nhiễm môi trường, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái, chú trọng bảo vệ môi trường khu dân cư.
- Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường; bố trí khoản chi riêng cho bảo vệ môi trường trong ngân sách nhà nước với tỷ lệ tăng dần theo khả năng của ngân sách nhà nước và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ môi trường; ưu tiên nguồn kinh phí cho các nhiệm vụ trọng điểm về bảo vệ môi trường.
- Bảo đảm quyền lợi của tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân đóng góp cho hoạt động bảo vệ môi trường; ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường; thúc đẩy sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường.
- Tăng cường nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ xử lý ô nhiễm, tái chế, xử lý chất thải; ưu tiên chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường, kỹ thuật hiện có tốt nhất; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về bảo vệ môi trường.
- Tôn vinh, khen thưởng cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân có đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.
- Mở rộng, tăng cường hội nhập, hợp tác quốc tế và thực hiện cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường.
- Thực hiện sàng lọc dự án đầu tư theo tiêu chí về môi trường; áp dụng công cụ quản lý môi trường phù hợp theo từng giai đoạn của chiến lược, quy hoạch, chương trình và dự án đầu tư.
- Lồng ghép, thúc đẩy các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Các loại tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam hiện nay gồm những gì?
Tài nguyên thiên nhiên là những vật chất có sẵn trong tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến, sử dụng, phục vụ cuộc sống của con người. Tài nguyên thiên nhiên có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào tiêu chí phân loại.
Có thể chia các loại tài nguyên thiên nhiên theo hình dạng và tính chất của vật chất thành các loại sau:
Tài nguyên thiên nhiên là những vật chất có sẵn trong tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến, sử dụng, phục vụ cuộc sống của con người. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của con người, bao gồm:
Tài nguyên thiên nhiên cung cấp cho con người các nhu cầu thiết yếu để duy trì sự sống, bao gồm:
- Thức ăn: Tài nguyên đất đai, nước, không khí, ánh sáng mặt trời,... cung cấp cho con người các nguồn thực phẩm phong phú, đa dạng.
- Nước uống: Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, cần thiết cho sự sống của con người.
- Không khí: Không khí là môi trường sống của con người, cung cấp oxy cho hô hấp và loại bỏ các chất thải.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sống của con người.
Tài nguyên thiên nhiên cung cấp thức ăn cho con người
Vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế, bao gồm:
- Nông nghiệp: Đất đai, nước, khí hậu,... là những tài nguyên quan trọng để phát triển nông nghiệp.
- Công nghiệp: Khoáng sản, năng lượng,... là những tài nguyên quan trọng để phát triển công nghiệp.
- Dịch vụ: Tài nguyên du lịch, tài nguyên văn hóa,... là những tài nguyên quan trọng để phát triển dịch vụ.
Lưu ý: Nội dung trên mang tính chất tham khảo
Các loại tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam hiện nay gồm những gì? (hình từ Internet)
Khái niệm tài nguyên du lịch là gì?
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về tài nguyên du lịch (Tourism resources) đã được đưa ra:
Theo các nhà khoa học Du lịch Trung Quốc, tài nguyên du lịch được hiểu là tất cả giới tự nhiên và xã hội loài người có khả năng thu hút và có sức hấp dẫn đối với khách du lịch, có thể sử dụng cho ngành du lịch nhằm mục đích sản sinh ra hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường.
Pirojnik nhận định: Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa - lịch sử và những thành phần của chúng, tạo điều kiện cho việc phục hồi và phát triển thể lực tinh thần, khả năng lao động và sức khỏe của của con người. Trong cấu trúc nhu cầu du lịch hiện tại và tương lai, trong điều kiện khả năng kinh tế kỹ thuật cho phép, các loại tài nguyên này được dùng để trực tiếp và gián tiếp sản xuất ra những dịch vụ du lịch và nghỉ ngơi.
Còn tại Việt Nam, theo Khoản 4, Điều 3, Chương 1 Luật Du lịch Việt Nam năm 2017, “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa.”
Từ các khái niệm trên, ta có thể rút ra được nhận định tài nguyên du lịch bao gồm cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đã, đang và sẽ được khai thác và sử dụng nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động du lịch, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
➢ Kho đề tài luận văn tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ Du lịch
Tài nguyên thiên nhiên có phải là một trong những nguồn vốn tự nhiên hay không?
Theo Điều 147 Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định về khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên như sau:
Theo đó, các nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nguồn vốn tự nhiên, cụ thể các nguồn tài nguyên thiên nhiên gồm: đất, nước, rừng, nguồn lợi thủy sản, khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch, các nguồn năng lượng tự nhiên và các dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên.
Việc khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên được thực hiện theo nguyên tắc sau đây:
- Vốn tự nhiên được kiểm kê, đánh giá phục vụ phát triển kinh tế xã hội theo quy định của pháp luật;
- Nhà nước ưu tiên đầu tư duy trì, phát triển vốn tự nhiên có khả năng tái tạo, cung cấp dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên;
- Nguồn thu từ vốn tự nhiên được ưu tiên tái đầu tư duy trì, phát triển vốn tự nhiên.
Đặc điểm của tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch mang những đặc điểm nổi bật sau:
Vai trò của tài nguyên du lịch là gì?
Vai trò của tài nguyên du lịch là gì?
Trong hoạt động du lịch, tài nguyên du lịch đóng một vai trò vô cùng quan trọng, cụ thể:
Theo điều 13 luật Du lịch, tài nguyên du lịch được chia thành hai loại: Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các nhân tố gắn liền với tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các nhân tố gắn liền con người và xã hội. Cụ thể:
Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và các yếu tố có mức độ hấp dẫn cao, phản ánh môi trường địa lý của chúng và có thể được định giá cho mục đích du lịch. Theo Khoản 1, Điều 15, Chương III của Luật du lịch Việt Nam năm 2017, tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm cảnh quan thiên nhiên, các yếu tố địa chất, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái và các yếu tố tự nhiên khác có thể được sử dụng cho mục đích du lịch.
#1 Tài nguyên địa hình – địa chất - địa mạo
Địa hình là thành phần quan trọng của tự nhiên, là nơi diễn ra tất cả các hoạt động của con người. Nó được hình thành từ quá trình địa chất, địa mạo lâu dài. Trong hoạt động du lịch, địa hình là cơ sở quan trọng để hình thành nên các loại tài nguyên du lịch khác. Các dạng địa hình thích hợp cho sự phát triển các hoạt động du lịch nổi bật như: địa hình đồng bằng, miền núi, địa hình vùng đồi, địa hình Karst, địa hình ven bờ biển.
Tài nguyên khí hậu được xác định nhằm mục đích khai thác phục vụ cho hoạt động du lịch bao gồm: nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, áp suất không khí, bức xạ mặt trời. Khi khai thác tài nguyên khí hậu, ta cần đánh giá ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe của con người. Thông thường, những khu vực có khí hậu ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe con người sẽ được nhiều du khách ưa thích và lựa chọn làm nơi nghỉ ngơi.
Tài nguyên nước bao gồm nước ngầm và nước mặt. Trong đó, nước mặt bao gồm đại dương, biển, suối, thác nước là nguồn tài nguyên có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động du lịch. Bên cạnh đó, nguồn nước ngầm cũng rất thích hợp cho các hoạt động du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh...
Tài nguyên sinh vật bao gồm nguồn động, thực vật có khả năng sử dụng nhằm mục đích phát triển du lịch. Trong hoạt động du lịch, tài nguyên sinh vật có ý nghĩa đặt biệt do tính đa dạng sinh học, tạo ra nhiều phong cảnh đẹp, sinh động. Tài nguyên sinh vật bao gồm nhiều loại hình du lịch như: Du lịch sinh thái, du lịch bền vững, du lịch nghỉ dưỡng...
Tài nguyên du lịch nhân văn là loại tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo, do con người sáng tạo ra. Tuy nhiên, để được coi là tài nguyên du lịch nhân văn, các loại tài nguyên này cần thỏa mãn điều kiện có sức hấp dẫn với du khách và có khả năng khai thác phát triển du lịch để tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường. Cũng theo Theo Khoản 1, Điều 15, Chương III của Luật du lịch Việt Nam năm 2017, tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng, khảo cổ, kiến trúc; giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội, văn nghệ dân gian và các giá trị văn hóa khác; công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng cho mục đích du lịch.
#1 Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể
Tài nguyên du lịch nhân văn thực chất là các di sản văn hóa (bao gồm các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật bảo vật quốc gia, các công trình đương đại…) hấp dẫn khách du lịch có thể bảo tồn khai thác vào mục đích phát triển du lịch, mang lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
#2 Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể
Ngược lại với tài nguyên du lịch nhân văn vật thể, tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể bao gồm các di sản văn hóa phi vật thể có giá trị hấp dẫn khách du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể có thể bảo tồn, khai thác nhằm phục vụ mục đích phát triển du lịch, mang lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường. Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: Các lễ hội truyền thống, nghề và làng nghề thủ công cổ truyền, văn hóa ẩm thực, văn hóa ứng xử, phong tục, tập quán, văn hóa các tộc người, trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian…
Trên đây là toàn bộ những kiến thức liên quan đến khái niệm tài nguyên du lịch là gì, đặc điểm, vai trò và phân loại tài nguyên du lịch ở Việt Nam. Hy vọng bài viết đã cung cấp cho bạn đọc những kiến thức hữu ích áp dụng vào công việc học tập và cuộc sống.
Việt Nam đang đối mặt với áp lực của phát triển ngày càng gia tăng đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên biển.
Sau hơn 30 năm đổi mới chính sách, nền kinh tế Việt Nam nói chung và tại vùng ven biển nói riêng đã phát triển mạnh mẽ. Phát triển kinh tế dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa và đô thị hóa có xu thế tiến ra biển. Trong những năm vừa qua, ước tính kinh tế biển đóng góp khoảng 48% GDP, trong đó các ngành kinh tế biển có đóng góp lớn là dầu khí 64%, đánh bắt và chế biến hải sản 14%, vận tải biển và dịch vụ cảng biển 11%, du lịch biển khoảng 9%...Song áp lực của phát triển ngày càng gia tăng đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên, cũng như các giá trị khác của vùng biển và ven biển luôn là vấn đề bức xúc hiện nay. Suy giảm tài nguyên sinh học Theo đánh giá của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, sự suy giảm chất lượng môi trường biển làm cho môi trường sống của các loài sinh vật biển bị phá hủy, mất đa dạng sinh học. Nhiều loài sinh vật biển hiện đang giảm về số lượng, có loài đã tuyệt chủng cục bộ. Có đến 236 loài thủy sinh quý hiếm bị đe dọa ở cấp độ khác nhau, trong đó có hơn 70 loài sinh vật biển đã bị liệt kê trong sách đỏ Việt Nam. Nhiều loài trong số này hiện vẫn đang là đối tượng khai thác bằng nhiều hình thức khác nhau, kể cả hình thức tận diệt bằng hóa chất và chất nổ. Sự suy giảm đa dạng sinh học kéo theo sự suy giảm số lượng loài sinh vật có giá trị kinh tế. Do nguồn lợi hải sản đang bị khai thác theo chiều hướng không bền vững, nên ngày càng bị cạn kiệt dần về số lượng và suy giảm cả về chất lượng. Các nguồn cá dự trữ bị suy giảm từ 4 triệu tấn vào năm 1990 xuống còn 3 triệu tấn như hiện nay. Kích thước trung bình của cá và tính đa dạng loài cũng giảm đáng kể. Nguyên nhân chính yếu là do sự gia tăng trong xuất khẩu thủy sản, dẫn đến sản lượng đánh bắt hàng năm vượt quá nguồn dự trữ có sẵn. Mặt khác các biện pháp đánh bắt bất hợp pháp và mang tính hủy diệt như sử dụng chất nổ, xyanua, xung điện, mắt lưới nhỏ...vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ, không chỉ làm suy giảm các tài nguyên biển, mà còn gây tổn hại cho môi trường sống của các loài hải sản. Đó là chưa kể đến ảnh hưởng của dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật trong nguồn nước tích tụ qua lại các bậc dinh dưỡng của chuỗi thức ăn, mà các loài thủy hải sản được coi là một trong những mắt xích cuối. Giá trị về độ phủ của rạn san hô và độ đa dạng loài cũng có chiều hướng suy giảm trong những năm gần đây, ở một số vùng hơn 30%. Một số loài thủy sản quan trọng sống ở rạn đang suy giảm trầm trọng, như tôm Bác sỹ, tôm Hùm, Hải sâm, cá Bướm, cá Thiên thần, cá Đuôi gai...Mật độ nhóm cá kích thước lớn có giá trị thương mại cao đang giảm một cách trầm trọng. Tương tự như đối với rạn san hô, thảm cỏ biển cũng đang bị thu hẹp dần do tai biến thiên nhiên, lấn biển để xây dựng ao nuôi thủy sản, các công trình ven biển và do ô nhiễm. Các điểm ‘nóng” về suy giảm thảm cỏ biển là Vịnh Hạ Long, đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, đảo Phú Quốc đồng thời, diện tích rừng ngập mặn suy giảm một cách rõ rệt, từ 408.500ha vào năm 1943, đến năm 2000 chỉ còn 155.290ha. Ô nhiễm ven bờ gia tăng Qua số liệu điều tra của Tổng cục Môi trường, nước mặt ven biển trên địa bàn cả nước đã có biểu hiện ô nhiễm bởi tổng lượng chất thải rắn lơ lửng (TSS), nhu cầu ô xy hóa học (COD), chất dinh dưỡng, Coliform...Đặc biệt, ô nhiễm xuất hiện tại nhiều đoạn sông lấy nước cấp cho sinh hoạt. Nhiễm mặn nguồn nước mặt đang là vấn đề nổi cộm ảnh hưởng đến nhiều nguồn nước và diện tích đất trồng trọt, nhất là ở khu vực Miền Nam . Nguyên nhân chính làm suy giảm chất lượng nước mặt ven biển là do thay đổi thời tiết, việc sử dụng nước thiếu kiểm soát của các ngành kinh tế và các hộ gia đình, do mô hình canh tác chưa hợp lý. Biểu hiện TSS rõ nhất tại Ba Lạt, Định An và Rạch Giá; Xianua ở hầu hết các khu vực từ Trà Cổ đến Quy Nhơn và một số kim loại khác tại vùng Ba Lạt. Tại các vùng khai thác mỏ và chế biến khoáng sản, có đồng, thủy ngân và các chất phóng xạ gây ô nhiễm nước và trầm tích biển ngày càng gia tăng như ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Dung Quất, Gành Rái, Rạch Giá. Cộng với hoạt động nuôi trồng thủy sản phát sinh đáng kể chất thải rắn đổ trực tiếp ra biển. Với trên 600.000ha nuôi tôm, hàng năm xả ra môi trường gần 3 triệu tấn chất thải rắn. Bên cạnh đó, sự suy thoái đất gia tăng cả về tốc độ và mức độ nghiêm trọng với 3,2 triệu ha đất đồng bằng và ven biển bị thoái hóa. Ô nhiễm đất ven biển còn do tác động xấu của của hàng loạt vấn đề như xói mòn, thoái hóa, nghèo dinh dưỡng, nhiễm mặn, axit hóa, ô nhiễm, hạn hán, ngập lụt, suy giảm chất hữu cơ, xói lở ở các bờ sông, bờ biển. Vì vậy, để khai thác hiệu quả tiềm năng vùng biển và vùng ven biển, bảo vệ và duy trì lâu dài các giá trị tài nguyên sinh vật biển và môi trường biển, cần có Chiến lược quản lý tổng hợp đới bờ Việt Nam có tầm nhìn đến năm 2030, nhằm khắc phục các điểm yếu của phương cách quản lý tài nguyên, môi trường hiện hành, thông qua việc áp dụng giải pháp mang tính tổng hợp, hài hòa và tối ưu các mục tiêu sử dụng, đảm bảo tính vẹn toàn và khả năng cung cấp bền vững các sản phẩm và dịch vụ của các hệ thống biển và ven biển./.
Sau hơn 30 năm đổi mới chính sách, nền kinh tế Việt Nam nói chung và tại vùng ven biển nói riêng đã phát triển mạnh mẽ. Phát triển kinh tế dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa và đô thị hóa có xu thế tiến ra biển.
Trong những năm vừa qua, ước tính kinh tế biển đóng góp khoảng 48% GDP, trong đó các ngành kinh tế biển có đóng góp lớn là dầu khí 64%, đánh bắt và chế biến hải sản 14%, vận tải biển và dịch vụ cảng biển 11%, du lịch biển khoảng 9%…
Song áp lực của phát triển ngày càng gia tăng đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên, cũng như các giá trị khác của vùng biển và ven biển luôn là vấn đề bức xúc hiện nay.
Theo đánh giá của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, sự suy giảm chất lượng môi trường biển làm cho môi trường sống của các loài sinh vật biển bị phá hủy, mất đa dạng sinh học. Nhiều loài sinh vật biển hiện đang giảm về số lượng, có loài đã tuyệt chủng cục bộ. Có đến 236 loài thủy sinh quý hiếm bị đe dọa ở cấp độ khác nhau, trong đó có hơn 70 loài sinh vật biển đã bị liệt kê trong sách đỏ Việt Nam. Nhiều loài trong số này hiện vẫn đang là đối tượng khai thác bằng nhiều hình thức khác nhau, kể cả hình thức tận diệt bằng hóa chất và chất nổ. Sự suy giảm đa dạng sinh học kéo theo sự suy giảm số lượng loài sinh vật có giá trị kinh tế.
Do nguồn lợi hải sản đang bị khai thác theo chiều hướng không bền vững, nên ngày càng bị cạn kiệt dần về số lượng và suy giảm cả về chất lượng. Các nguồn cá dự trữ bị suy giảm từ 4 triệu tấn vào năm 1990 xuống còn 3 triệu tấn như hiện nay. Kích thước trung bình của cá và tính đa dạng loài cũng giảm đáng kể.
Nguyên nhân chính yếu là do sự gia tăng trong xuất khẩu thủy sản, dẫn đến sản lượng đánh bắt hàng năm vượt quá nguồn dự trữ có sẵn. Mặt khác các biện pháp đánh bắt bất hợp pháp và mang tính hủy diệt như sử dụng chất nổ, xyanua, xung điện, mắt lưới nhỏ…vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ, không chỉ làm suy giảm các tài nguyên biển, mà còn gây tổn hại cho môi trường sống của các loài hải sản. Đó là chưa kể đến ảnh hưởng của dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật trong nguồn nước tích tụ qua lại các bậc dinh dưỡng của chuỗi thức ăn, mà các loài thủy hải sản được coi là một trong những mắt xích cuối.
Giá trị về độ phủ của rạn san hô và độ đa dạng loài cũng có chiều hướng suy giảm trong những năm gần đây, ở một số vùng hơn 30%. Một số loài thủy sản quan trọng sống ở rạn đang suy giảm trầm trọng, như tôm Bác sỹ, tôm Hùm, Hải sâm, cá Bướm, cá Thiên thần, cá Đuôi gai…Mật độ nhóm cá kích thước lớn có giá trị thương mại cao đang giảm một cách trầm trọng.
Tương tự như đối với rạn san hô, thảm cỏ biển cũng đang bị thu hẹp dần do tai biến thiên nhiên, lấn biển để xây dựng ao nuôi thủy sản, các công trình ven biển và do ô nhiễm. Các điểm ‘nóng” về suy giảm thảm cỏ biển là Vịnh Hạ Long, đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, đảo Phú Quốc đồng thời, diện tích rừng ngập mặn suy giảm một cách rõ rệt, từ 408.500ha vào năm 1943, đến năm 2000 chỉ còn 155.290ha.
Qua số liệu điều tra của Tổng cục Môi trường, nước mặt ven biển trên địa bàn cả nước đã có biểu hiện ô nhiễm bởi tổng lượng chất thải rắn lơ lửng (TSS), nhu cầu ô xy hóa học (COD), chất dinh dưỡng, Coliform…Đặc biệt, ô nhiễm xuất hiện tại nhiều đoạn sông lấy nước cấp cho sinh hoạt.
Nhiễm mặn nguồn nước mặt đang là vấn đề nổi cộm ảnh hưởng đến nhiều nguồn nước và diện tích đất trồng trọt, nhất là ở khu vực Miền Nam . Nguyên nhân chính làm suy giảm chất lượng nước mặt ven biển là do thay đổi thời tiết, việc sử dụng nước thiếu kiểm soát của các ngành kinh tế và các hộ gia đình, do mô hình canh tác chưa hợp lý. Biểu hiện TSS rõ nhất tại Ba Lạt, Định An và Rạch Giá; Xianua ở hầu hết các khu vực từ Trà Cổ đến Quy Nhơn và một số kim loại khác tại vùng Ba Lạt.
Tại các vùng khai thác mỏ và chế biến khoáng sản, có đồng, thủy ngân và các chất phóng xạ gây ô nhiễm nước và trầm tích biển ngày càng gia tăng như ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Dung Quất, Gành Rái, Rạch Giá. Cộng với hoạt động nuôi trồng thủy sản phát sinh đáng kể chất thải rắn đổ trực tiếp ra biển. Với trên 600.000ha nuôi tôm, hàng năm xả ra môi trường gần 3 triệu tấn chất thải rắn. Bên cạnh đó, sự suy thoái đất gia tăng cả về tốc độ và mức độ nghiêm trọng với 3,2 triệu ha đất đồng bằng và ven biển bị thoái hóa. Ô nhiễm đất ven biển còn do tác động xấu của của hàng loạt vấn đề như xói mòn, thoái hóa, nghèo dinh dưỡng, nhiễm mặn, axit hóa, ô nhiễm, hạn hán, ngập lụt, suy giảm chất hữu cơ, xói lở ở các bờ sông, bờ biển.
Vì vậy, để khai thác hiệu quả tiềm năng vùng biển và vùng ven biển, bảo vệ và duy trì lâu dài các giá trị tài nguyên sinh vật biển và môi trường biển, cần có Chiến lược quản lý tổng hợp đới bờ Việt Nam có tầm nhìn đến năm 2030, nhằm khắc phục các điểm yếu của phương cách quản lý tài nguyên, môi trường hiện hành, thông qua việc áp dụng giải pháp mang tính tổng hợp, hài hòa và tối ưu các mục tiêu sử dụng, đảm bảo tính vẹn toàn và khả năng cung cấp bền vững các sản phẩm và dịch vụ của các hệ thống biển và ven biển.
Tài nguyên du lịch được coi là một phân hệ du lịch quan trọng, mang tính quyết định của hệ thống lãnh thổ du lịch, là mục đích khám phá của du khách, là cơ sở quan trọng để hình thành, phát triển du lịch ở một khu, điểm du lịch ở các địa phương hoặc quốc gia.
Tổng quan về tài nguyên du lịch
Theo Luật Du lịch Việt Nam 2005 thì Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.
Tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc và độc đáo có sức hấp dẫn lớn đối với du khách; tài nguyên du lịch là những tài nguyên gồm hai giá trị: giá trị hữu hình và giá trị vô hình; tài nguyên du lịch thường dễ khai thác; tài nguyên du lịch có thời gian khai thác khác nhau; tài nguyên du lịch được khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch; tài nguyên du lịch có thể sử dụng được nhiều lần.
Khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch
Để khai thác và bảo vệ hiệu quả tài nguyên du lịch nhân văn cần đánh giá hiện trạng khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch theo ngành và theo lãnh thổ, đưa ra một số nguyên tắc khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch theo hướng phát triển bền vững.
Một số dấu hiệu nhận biết khai thác và bảo vệ hiệu quả tài nguyên du lịch: Số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch được đầu tư tôn tạo, bảo vệ; số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch được quy hoạch; áp lực môi trường tại các khu, điểm du lịch được quản lý; cường độ hoạt động tại các khu, điểm du lịch được quản lý; mức độ đóng góp từ thu nhập du lịch cho nỗ lực bảo tồn phát triển tài nguyên, bảo vệ môi trường.
Để khai thác, bảo vệ tài nguyên du lịch theo hướng phát triển du lịch bền vững chúng ta cần thực hiện một số giải pháp:
Một là: khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên du lịch một cách hợp lý và giảm thiểu chất thải ra môi trường.
Hai là: phát triển du lịch phải gắn liền với nỗ lực bảo tồn tính đa dạng của tài nguyên.
Ba là: phát triển du lịch phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội vì du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng cao nên mọi phương án khai thác tài nguyên để phát triển du lịch phải phù hợp với quy hoạch chuyên ngành nói riêng và quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội nói chung ở phạm vi quốc gia, vùng và địa phương.
Bốn là: nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm, sự tham gia, ý kiến đóng góp của các đối tượng tham gia du lịch trong việc khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch.
Năm là: tăng cường tính có trách nhiệm trong hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch. (Nguồn: LV)